Bệnh lở loét trên cá lóc là tên thường gọi cho hội chứng lở loét (epizootic ulcerative syndrome – EUS). Bệnh tương đối phổ biến, khó chữa và gây nhiều thiệt hại ở các ao nuôi. Phòng Kỹ Thuật Thủy Sản APA chia sẻ đến bà con thông tin cũng như cách phòng trị hiệu quả bệnh lở loét trên cá lóc.
I. GIỚI THIỆU
Bệnh lở loét trên cá lóc là tên thường gọi cho hội chứng lở loét – epizootic ulcerative syndrome (EUS) xảy ra trên nhiều loài cá nước ngọt như cá lóc, cá rô, cá chẽm, cá đối, cá Koi,… thường xảy ra ở các vùng nuôi khu vực hạ lưu các con sông có độ mặn dưới 2 phần nghìn.
Bệnh được mô tả lần đầu tiên trên cá vàng tại Nhật Bản (Egusa và Masuda, 1971; Miyazaki và Egusa, 1972) sau đó phát hiện ở nhiều nước khác trên thế giới. Ở Việt Nam, bệnh được công bố bỡi Roberts và cộng sự (1994). Cho đến nay đây là một bệnh tương đối phổ biến, khó chữa và gây nhiều thiệt hại ở các ao cá lóc, đặc biệt là ao lấy nước theo chế độ thủy triều khi mùa nước kém, ao ở vùng nuôi bị ô nhiễm. Chúng ta thấy bệnh này xuất hiện nhiều trên cá lóc vì khi bị bệnh cá lóc vẫn chịu được trong một thời gian dài trong khi đó hầu hết các loài khác bị chết nhanh sau một thời gian nhiễm bệnh.
II. NGUYÊN NHÂN GÂY RA BỆNH
Dựa trên nghiên cứu các sinh vật gây bệnh được tìm thấy từ các mẫu bị nhiễm EUS, một loạt các căn nguyên đã được quy cho EUS, chẳng hạn như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng và virus. Tuy nhiên, người ta xác nhận rằng tác nhân gây bệnh cơ bản của EUS là một loại nấm oomycete, Aphanomyces invaderis (Willoughby et al., 1995) (Hình a, b – mũi tên). Tên phân loại hợp lệ theo Quy tắc danh pháp thực vật quốc tế (ICBN) của loài này là A. invadans (Lilley et al., 1998) (Xin xem thêm danh sách loài cá, các loài ký sinh trùng, vi khuẩn, vi rút ở tài liệu tham khảo).
III. QUÁ TRÌNH NHIỄM BỆNH
Bệnh xảy ra ở nhiều địa phương và mô hình nuôi có khác nhau, tuy nhiên nhìn chung tại các ao bị nhiễm bệnh đều có đặc điểm là ao nuôi mật độ dày, môi trường ô nhiễm, quy trình phòng bệnh không hiệu quả hoặc không xử lý bệnh khi có dấu hiệu sớm, đến khi bệnh lây lan ra toàn quần đàn, bị đa bội nhiễm thì bắt đầu chữa trị kém hiệu quả.
– Môi trường là nguyên nhân chính gây ra bệnh trên cá, bệnh tiến triển nhanh vào thời điểm nắng nóng và giảm vào mùa mát. Vào mùa nắng nóng, cá lóc ăn nhiều, thải phân nhanh, trong khi đó thức ăn viên hoặc thức ăn tươi cho cá chứa hàm lượng cao do đó nhanh chóng làm ô nhiễm đáy ao nuôi. Mùa nắng cũng đồng hành với mùa nước cạn, việc bơm nước, thay nước theo nước bị hạn chế, các ao ở kênh nhỏ nước không đủ nước lấy nên chỉ thay được khi các con nước lớn,… Cá lóc là loài có cơ quan hô hấp phụ tuy nhiên có sức hoạt động mạnh, bay nhảy để bắt mồi do đó khi môi trường ao có nhiều khí độc, oxy xuống thấp, làm cho cá dễ dàng suy yếu.
– Sự tích lũy chất hữu cơ, phân cá dưới đáy ao cùng với nhiệt độ nóng khiến cho các loài nấm và ký sinh trùng sinh sôi mạnh. Các loài giun sán đi kèm với thức ăn tươi cũng phát triển nhiều trong nội tạng cá. Ký sinh trùng đu bám dễ dàng gây lở loét trên da, mang, hầu thực quản tạo điều kiện cho các loài nấm cơ hội vi khuẩn, vi rút xâm nhập.
– Tại các ao nuôi bị nhiễm phèn, kim loại nặng hoặc hóa chất nông nghiệp nhưng không được xử lý tốt, khi pH giảm ở mức thấp cũng khiến cho da cá bị lở loét, tạo cơ hội cho nấm phát triển trên da, các loài vi khuẩn cơ hội gây xuất huyết, lở loét theo đó tấn công gây lở loét.
Khi mầm bệnh được tiêm hoặc xâm nhập vào cơ thể cá, các phản ứng đại thực bào sẽ xảy ra.Tuy nhiên các đại thực bào rất khó xử lý các loại bào tử nấm. Ở các loài có phản ứng u xơ (granulomatous reaction) mạnh mẽ như cá rô phi thì quá trình bao vây và ngăn chặn sự phát triển của nấm sau 2 ngày bị nhiễm.
Khi cá không thể kháng lại sự phát triển của nấm hoặc bị mầm bệnh tiếp tục nhiễm từ môi trường thì nấm sẽ phát triển ngay trên vết thương tạo thành nhiều vết lở loét và săn sâu vào cơ thịt cá gây hoại tử, xuất huyết.
Khi bệnh tiến triển, mắt lồi ra, cơ thể trở nên lở loét (hư hại) và trong một số trường hợp, đầu cũng bị xói mòn, dẫn đến việc cá bị tổn thương do mức độ nghiêm trọng (Hawke và cộng sự, 2003; Podeti và Benarjee, 2017). Do đó khi thấy cá lóc bị lở loét ở đầu nghĩa là bệnh đã tiến triển ở mức độ nghiêm trọng.
IV. MÔ BỆNH HỌC
Các tổn thương thường bắt đầu bằng các đốm lở loét màu đỏ, sau đó ăn sâu dần vào cơ thịt cá. Các cơ quan nội tạng trong giai đoạn đầu của nhiễm trùng chỉ cho thấy phản ứng viêm. Ở giai đoạn này, cá có thể hồi phục sau đó để lại các vết sẹo màu đen.
Quan sát mô bệnh học của các tổn thương ở giai đoạn đầu cho thấy sự phù nề và mất các tế bào biểu mô. Những thay đổi thoái hóa được quan sát thấy ở lớp hạ bì, với chứng tăng huyết áp, xuất huyết và các tế bào viêm xâm nhập giữa các sợi của lớp hạ bì. Xuất tiết viêm và xuất huyết cũng được tìm thấy trong vùng dưới da. Thoái hóa mô với xuất huyết và viêm xuất huyết rõ ràng trong giai đoạn nâng cao hơn. Các sợi nấm được bao bọc bởi một lớp tế bào biểu mô phát triển tốt. Hạt mycotic của sợi nấm không nhiễm trùng này lây lan qua cơ bị nhiễm bệnh và các cơ quan nội tạng khác trong giai đoạn rất muộn. Trong giai đoạn tiên tiến, không có sợi cơ trong các mô u hạt. Chúng được thay thế bởi xơ hóa, tế bào viêm và mao mạch mới phát triển (Chinabut et al., 1995; Chinabut và Roberts, 1999). Đặc điểm khác biệt này của u hạt nấm điển hình trong các tổn thương của cá nhiễm EUS.
Chú thích: Diễn tiến mô học của cá khi tiêm tiêm Aphanomyces invadans NJM9701 trong các thí nghiệm tiêm cơ thịt. Nguồn: Seyedeh, 2015.
(a) U hạt trưởng thành với trung tâm hoại tử bao quanh bởi các lớp nguyên bào sợi (F) trong Snakehead (12 pi). Lưu ý lắng đọng các sắc tố melanin, H & E, 400 ×.
(b) Hình thành granulomata (mũi tên) được đặc trưng bởi các lớp nguyên bào sợi dày trong Snakeskin Gourmetami (10 pi), H & E, 200 ×.
(c) Một u hạt (mũi tên) được bao quanh bởi các tế bào biểu mô trong cá chép Koi (10 pi), H & E, 200 ×.
(d) Các tế bào khổng lồ của cơ thể nước ngoài (hình tròn) với các mô liên kết xung quanh ở cá da trơn (14 dpi), H & E, 400 ×.
V. ĐIỀU TRỊ
1. Vắc xin
Trên thị trường chưa có vắc-xin cho cá phòng bệnh này. Tuy nhiên, cá lóc đã được chủng ngừa bằng một chiết xuất thô của A. invadans đã gợi ra phản ứng miễn dịch dịch thể được phát hiện bởi SDS-PAGE (natri dodecyl sulphate polyacrylamide gel) và phân tích Western blot (Thompson et al., 1997; B. Oidtmann, 2011; EFSA, 2011).
2. Hóa trị
R. E. Campbell và đồng nghiệp đã thử nghiệm 49 hóa chất khác nhau diệt nấm Oomycete Aphanomyces invadans (2001). Trong đó bao gồm: (a) các hóa chất có hoạt tính được báo cáo trước đây chống lại nấm Oomycete; (b) hóa chất được sử dụng ở châu Á để điều trị bùng phát bệnh loét; (c) chất diệt khuẩn thương mại và thuốc diệt nấm; (d) các sản phẩm tự nhiên có hoạt tính kháng khuẩn tiềm năng; và (e) các chất hoạt động bề mặt được thử nghiệm riêng biệt và kết hợp với một số phương pháp điều trị trên.
Không có hợp chất nào được thử nghiệm chứng minh hiệu quả như malachite green (đã bị cấm, được khuyến cáo thay thế bằng Bronopol có trong APA KILL ALGAE), nhưng một số hợp chất tự nhiên có độc tính thấp và chất hoạt động bề mặt cụ thể cho thấy tiềm năng cho các nghiên cứu tiếp theo. Một số hợp chất hiện đang được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản Châu Á đã được chứng minh là không có tác dụng đối với sợi nấm A. invadans với tỷ lệ điều trị được đề nghị. Một loạt các hợp chất thể hiện hoạt động chống lại sợi nấm đã được chọn để thử nghiệm thêm trong một thử nghiệm vận động của bào tử nấm. Nồng độ điều trị thấp hơn được yêu cầu để ức chế sự vận động của vườn thú so với yêu cầu để ức chế sự tăng trưởng của sợi nấm.
Hoạt động của bào tử Zoospore đã chấm dứt trong vòng 1 giờ sau khi tiếp xúc với 2,5 phần triệu (ppm) dừa coconut diethanol-amide; 1,25 phút keo ong- propolis + 0,5 ppm. 5ppm chiết xuất hạt neem (Azadirachta siamensis (có trong APA SPORA)) + 0,01 ppm. OP10; 20 ppm tinh dầu cây trà (Melaleuca Alternifloria) và 25 ppm. D-limonene + 0,05 ppm. E-Z-MulseTM. Các bào tử được xử lý đã được chứng minh là không thể tồn tại trong môi trường nuôi cấy. Các hợp chất được chọn đã được thử nghiệm thêm về khả năng ức chế sản xuất vườn thú của A. invadans mycelium trong khoảng thời gian 72 giờ. Trong các thử nghiệm độc tính, cá mè vinh, Barbodes gonionotus (Bleeker), tiếp xúc với 2,5 ppm. dừa coconut diethanolamide; 2,5 ppm. OP10; 0,5 ppm E-Z-MulseTM; 20 giờ chiều chiết xuất hạt neem + 0,5 ppm. OP10; và 5 ppm. D-limonene + 0,5 ppm. E-Z-MulseTM không bị chết và không có thay đổi hành vi rõ ràng. Tương tự, cá hồi cầu vồng, Oncorhynchus mykiss (Walbaum), tiếp xúc với 25 ppm. keo ong – propolis + 1 ppm. OP10; 10 giờ tối chiết xuất hạt neem + 0,01 ppm. 13 / 6,5; và 10 ppm. D-limonene + 0,01 ppm. OP10 không bị tử vong và không có thay đổi hành vi rõ ràng (APA: chúng tôi giữ tên tiếng anh của một số hợp chất để quí vị độc giả dễ hình dung và tìm hiểu tên nguyên gốc trong tiếng Anh).
VI. PHÒNG VÀ HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH LỞ LOÉT TRÊN CÁ LÓC
Bệnh lở loét có nguyên nhân chính là do sự ký sinh của nấm và các triệu chứng đa bội nhiễm khác. Khi bệnh đã xảy ra sẽ gây thiệt hại về kinh tế cho bà con, tuy nhiên đây không phải là bệnh gây chết nhanh đột biến mà hao rải rác. Do đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp ưu tiên theo thứ tự sau đây:
1. Phòng bệnh bằng cách giữ môi trường ao nuôi sạch sẽ: Thay nước để làm giảm sự phát triển của mầm bệnh, khi không có nước thay nên dùng vi sinh như APA WIN, Rhodo Sp. để xử lý đáy.
2. Tăng cường sức khỏe tổng thể cho cá. Cho cá ăn APA BETAGLUCAN hoặc APA BETACAN có nguồn gốc từ nấm men để kích thích miễn dịch chống lại nấm, vi khuẩn và làm lành vết thương. Cho ăn vitamin C + nhóm B để tăng cường miễn dịch (APA CMAX, APA MAX, APA VITA F). Có thể bổ sung thêm APA BIG ONE, APA LIWHITE để cá khỏe sau đó bắt đầu điều trị bằng thuốc đặc trị.
3. Giảm mật độ nấm và vi khuẩn trong nước và đáy ao: Diệt nấm và vi khuẩn bên ngoài da và trong nước bằng APA KILL ALGAE (hoạt chất Bronopol). Khi cá bị lở loét, nên dùng APA LS600H hoặc APA MAX CLEAR để diệt khuẩn và khử trùng vết thương hở định kỳ 2-3 ngày/lần.
4. Để diệt nấm bên trong cá dùng APA SPORA (chiết xuất cây xoan) 2-3 ngày liên tục, 1 lần/ngày. Sau 7-10 ngày cho ăn lại 1 đợt nữa.
5. Để diệt vi khuẩn, nên điều trị bệnh bằng các nhóm kháng sinh phổ rộng như APA TETRA, APA DOXYL, APA ERY, APA EBOM, APA SUPER CEFUR,… tùy theo biểu hiện của quá trình bội nhiễm và loài vi khuẩn nhạy mà chọn cho phù hợp. Đối với cá bệnh, lở loét quá nặng nên vớt bỏ để tránh lây lan. Sau khi điều trị bằng thuốc tiếp tục bổ sung các chất dinh dưỡng để duy trì tăng trưởng của cá.
Liều lượng có thể tham khảo trên nhãn và cách phối hợp tùy theo trường hợp cụ thể về sức khỏe cá, mức độ nhiễm bệnh, biểu hiện của bệnh. Xin liên hệ với chúng tôi qua Zalo APANANO hoặc Hotline (028) 6654 5628 để chia sẻ thông tin và có hướng điều trị phù hợp nhất.
Phòng Kỹ Thuật Thủy Sản APA lược dịch và tổng hợp.
Tài liệu tham khảo:
1. Anbazahan S, Chellam B., Ramasamy . H. Effect of azadirachtin on hematological and biochemical parameters of Cirrhina mrigala infected with Aphanomyces invadans. DOI: 10.13140 / RG.2.2.20869.14565
2. Afzali SF, Mohd Daud HH1,Sharifpour I, Afsharnasab M, Shankar S. Experimental infection of Aphanomyces invadans and susceptibility in seven species of tropical fish. http://europepmc.org/article/med/27047195
3. CABI, 2019. Epizootic Ulcerative Syndrome. https://www.cabi.org/isc/datasheet/83971#tooverview
4. EFSA, 2011. Scientific Opinion on Epizootic Ulcerative Syndrome. EFSA Journal 2011;9(10):2387
5. FAO, 2015. Report of the International Emergency Fish Disease Investigation Mission on a Suspected Outbreak of Epizootic Ulcerative Syndrome (EUS) in the Democratic Republic of Congo, 13–19 March 2015.
6. Nurul Aqilah Iberahim, Franziska Trusch, Pieter van West. Aphanomyces invadans, the causal agent of Epizootic Ulcerative Syndrome, is a global threat to wild and farmed fish.
7. OIE, 2019- Manual of Diagnostic Tests for Aquatic Animals. Infectionwith Aphanomycesinvadans (epizooticulcerative syndrome).